Tấm lòng của Lê Năng với trẻ thơ

1.

Tôi nhớ trước đây Lê Năng còn có bút danh Lâm Hồng, ông sinh ngày 4/10/1941, quê ở xã Hành Thiện, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định. Ông học xong chương trình cao cấp chính trị, từng giữ các chức danh: Chánh văn phòng Huyện uỷ Văn Yên, Trưởng ban Tuyên giáo Huyện uỷ Văn Yên, Thường trực Huyện uỷ Bảo Yên rồi về làm Trưởng phòng Phóng viên Báo Hoàng Liên Sơn, Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo tỉnh Lai Châu, nghỉ hưu ở thị trấn cổ Phúc, huyện Trấn Yên. Ông từ trần ngày 21/8/2006 do một cơn đau tim đột ngột.

Ông là hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lai Châu với 2 chuyên ngành: Văn học và Nhiếp ảnh (1994).

2.

Lê Năng đến với nghề viết văn trước hết bằng sự nghiệp làm báo. Từ một cộng tác viên ở cơ sở, ông trở thành nhà báo với nhiều bài viết ngắn gọn, năng động, phản ánh thực tiễn đời sống của nhân dân các dân tộc Lai Châu- Hoàng Liên Sơn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ông chịu khó đi thực tế lấy tư liệu và viết bài. Rất nhiều tin, ảnh, bài phản ánh gương người tốt việc tốt, các vấn đề thời sự được ông đưa lên mặt báo kịp thời. Ông đến với văn học bắt đầu bằng truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi “Cây si già và con chim sáo sậu” đăng trong tập “Văn nghệ Hoàng Liên Sơn” tháng 5/1988, rồi bài ký “Đầu nguồn suối Thíp” đăng Tạp chí “Văn nghệ Hoàng Liên Sơn” số 3 quý III năm 1990, có truyện thiếu nhi in chung với nhiều tác giả trong cuốn “Chiếc mảng bay”… Sau ngày tách tỉnh Hoàng Liên Sơn, ông làm Phó Chủ tịch Thường trực Hội Nhà báo tỉnh Lai Châu, quan tâm nhiều hơn đến các hoạt động hội thảo báo chí, mở các cuộc thi viết báo, tổ chức được 5 cuộc vận động chụp ảnh và trưng bày ảnh báo chí- nghệ thuật hàng năm với chủ đề “Đất nước- con người Lai Châu”. Bản thân ông cũng hăng hái viết truyện thiếu nhi, viết ký, chụp ảnh ít nhiều đạt được hiệu quả. Đáng ghi nhận là bức ảnh “Chiều trên lưng núi” của ông đoạt giải Nhất cuộc thi ảnh nghệ thuật “Đất nước- con người Lai Châu” năm 1996, đồng thời cũng được Huy chương Vàng trong Liên hoan Ảnh nghệ thuật khu vực các tỉnh Việt Bắc- Tây Bắc năm 1996. Về văn học, ông in được tập truyện viết cho thiếu nhi “Quả mít trái mùa” (N.X.B Văn hoá dân tộc, 1997).

3.

Lê Năng là tác giả có đóng góp đáng quý cho mảng văn học thiếu niên nhi đồng của tỉnh Lai Châu. Tập truyện “Quả mít trái mùa” (1997) dày 76 trang, gồm 13 truyện gần như đã thu gọn sự nghiệp sáng tác và tấm lòng yêu trẻ của ông. Ông viết cho thiếu nhi với ý thức giáo dục trẻ em khá rõ. Văn ông nồng hậu, giống như người ông trong gia đình kể chuyện cho các cháu nghe, dẫn dắt các cháu đi vào thế giới của các loài vật hay các câu chuyện huyền thoại, các sự tích để rồi rút ra các bài học giáo dục cụ thể.

Trong các truyện đồng thoại của ông, thế giới loài vật rất gần gũi với trẻ thơ. Nhân vật của ông có khi là các cô, các cậu loài vật nhỏ bé chăm ngoan, hồn nhiên, ngây thơ nhưng còn non dại, ít hiểu biết xung quanh nên dễ bị mắc bẫy, sau được những loài vật tốt cứu giúp mà hiểu được sự đời. Đọc truyện “Đôi bạn” ta rất cảm thông với nỗi lòng Nhím Nâu vốn chăm chỉ làm lụng, tập dượt, rất sáng dạ dưới sự chỉ bảo của cha mẹ nhưng lúc nào cũng buồn chán vì không tìm được bạn chí cốt. Một lần bố mẹ bị ốm nặng, Nhím Nâu thương cha mẹ vào rừng nhặt hạt, đào củ giúp cha mẹ, bị sa vào bẫy của cáo già, may được Thỏ Trắng cứu thoát. Cáo tức giận ráo riết lùng sục bắt Thỏ Trắng. Nhím Nâu đã dùng lông của mình bắn Cáo già cứu được Thỏ Trắng, từ đó cả nhà Nhím đều vui vì thấy Nhím Nâu đã có bạn chí cốt. Cũng mô tip trên, nhưng trong truyện “Chim chào mào con” thì kể về chú chào mào con không nghe lời mẹ, cứ vào ăn quả chuối tiêu chín đặt ở ngã ba cành ổi mà bị sập bẫy của một chú bé, bị nhốt trong lồng, được bác Bõ Kiến đến cứu giúp, từ đó mới ân hận, xin lỗi mẹ, hứa từ nay nghe lời mẹ, không dại như trước nữa. Truyện “Chú gà cồ” cũng vậy, cậy mình to lớn hơn các em, chú Chẳng nghe lời cha mẹ, chỉ thích đi chơi một mình, lại cùng lợn con nhảy xuống ao bơi với vịt, tý bị chết đuối. May nhờ Cún con nhảy xuống cứu, rồi được bác nông dân đến giúp mới thoát chết.

Bên cạnh các loài vật nhỏ dại, Lê Năng còn xây dựng được một số loài vật thông minh, tài trí, dũng cảm. Đọc truyện “Thỏ Nâu và Cáo vằn”, bạn đọc cảm thấy thú vị vì Thỏ Nâu đã dùng mưu trí cùng họ hàng nhà Thỏ lừa được Cáo Vằn vào hang đá rồi lấp cửa hang lại, giúp khu rừng được sống yên vui, hạnh phúc. Ở truyện “Thỏ mượn oai hổ” ta lại được biết một chú thỏ con chẳng may bị Sói bắt. Thỏ biết cách tương kế tựu kế mượn oai Hổ mà thoát thân, Thỏ còn biết mời Hổ về nhà mình trả ơn, thực chất để khoe với muôn loài “Ta là bạn chí cốt của bác Hổ” để doạ thiên hạ. Hổ hiểu được sự ranh mãnh của Thỏ con, nhưng không chấp và tìm cách cho Thỏ con hiểu: “Làm như vậy là xấu lắm ” để giáo dục Thỏ.

Với truyện “Ong và hoa”, tác giả có ý thức giáo dục các em về môi trường sống và mối quan hệ liên kết sống còn với tự nhiên. Đàn ong mật suốt ngày chăm chỉ làm lụng để tích mật ngọt cho đời, nhưng lại chê bai “các chị nhà hoa chỉ được cái khoe mẽ bề ngoài, nào có được cái tích sự gì?”. Các chị hoa tức lắm lên tiếng: “Nếu không có hoa thì hỏi các chú mày sống bằng gì?”. Ngày nào cũng vậy, ong và hoa lời qua tiếng lại làm cho không khí trong vườn xuân mất cả vui. Năm sau, mùa xuân đến nhưng đại hạn, cây cối không nẩy mầm được, rất ít hoa nở khiến loài ong không có gì ăn, không tích mật được. Ong chúa bảo ong thợ: “Từ nay đừng có chê bai ai, nhất là các loài hoa, hãy chú tâm học lấy cái hay cái tốt của người ta”, nếu “tình trạng này mà kéo dài thì chúng ta tiệt giống mất thôi”. Mùa xuân năm sau nữa, mưa thuận gió hoà, cây cối xanh tươi, hoa nở rực rỡ đưa hương mời chào ong đến. Nhưng họ hàng nhà ong do năm trước chết đói nhiều, nay còn ít, những con sống sót làm việc quần quật suốt ngày cũng không xuể. Các loài hoa lại bảo nhau: “Chúng mình giờ mới tỉnh ra, nếu không có ong giúp sức thụ phấn thì kết quả ra sao được? Thể mới biết, ai cũng có việc của người ấy, mà việc của ai cũng quan trọng phải không các bạn?” Ong và hoa tự thấy cái hay cái dở của mình, từ đó không cãi vã nhau nữa. Những mùa xuân tiếp theo, ong và hoa vui vẻ quấn quýt bên nhau tồn tại, sinh sôi làm cho đất trời đầy ắp những hoa thơm và mật ngọt. Truyện viết khá tự nhiên, giọng kể nhẹ nhàng có ý nghĩa giáo dục sâu sắc.

Một số truyện phê phán thói xấu của trẻ như tự kiêu, tự mãn, coi thường người khác. Truyện “Rùa con ngực lép” chẳng hạn: Rùa con có tài nhưng luôn nghênh ngang, tự mãn. Trong cuộc thi bơi chọn người tài toàn khu vực và nhận giải được làm chúa tể muôn loài. Một năm, Rùa con khệnh khạng đứng lên nhận giải và vỗ ngực tuyên bố “Ta là chúa tể thiên hạ, không ai được gọi ta là Rùa con nữa, mà gọi là Rùa vàng cho tương xứng với chiến tích”. Rùa vỗ ngực nhiều quá khiến lồng ngực bị sập xuống. Mọi loài phải xúm vào tìm lá thuốc cứu chữa cho Rùa con. Tuy thoát chết, nhưng bộ ngực của Rùa con không bình thường như cũ nữa, nó bị lép kẹp, phẳng lỳ nom rất xấu xí. Từ đó, họ nhà Rùa bị đeo theo cái tật xấu “vỗ ngực” cho đến tận ngày nay. Ở truyện “Cuộc thi bay giữa Ngỗng và Cò”, ta lại thấy một chàng Ngỗng tự kiêu luôn khẳng định mình sẽ thắng cuộc vì cậy được cha mẹ gửi sang vương quốc của “Thần gió” học cách bay nhanh như tên bắn. Ngỗng coi thường Cò Bạch gầy còm, ốm yểu, lặn lội kiếm sống vất vả lại đòi dự thi. Ai ngờ do sự khổ công bền bỉ luyện tập ở nhà mà Cò Bạch thắng cuộc, được nhận giải thưởng là chiếc mỏ vàng, từ đó loài Cò Bạch, con nào con nấy cũng có một chiếc mỏ vàng thật duyên dáng. Còn Ngỗng đi học ở “nước ngoài” chủ quan, suốt ngày chỉ mải lêu lổng ăn chơi, no say thì lăn ra ngủ đến nỗi to béo ục ịch, khi về nước dự thi tuy có bay nhanh hơn Cò Bạch nhưng lại không ngắt được bông hoa trên cành cây gạo cao ở bên sông để bay trở về nên cứ ngóng cổ vươn ra ngó theo Cò Bạch ngậm hoa bay về đích mà đành chịu thua, từ đó cổ loài Ngỗng mới dài ngoẵng ra. Những bài học về thói tự cao tự đại, chủ quan khinh người dẫn đến kết cục thất bại của các loài vật được tác giả kể khá hấp dẫn, thú vị, xem thật thấm thía.

Lại còn các cô cậu măng non trong truyện “Măng tre” nữa, các cô cậu a dua với anh Măng ngố đòi chủ nhà “chặt quách các ông bà tre già đi” bởi tre già “dở tính dở nết, cứ động gió một tý là nghiến răng kèn kẹt đến là khó chịu”, hoặc làm “vướng mắt”, khiến chúng không lớn nhanh được. Nghe lời chúng, bố Hiền- ông chủ nhà- nhân dịp chuẩn bị làm nhà, bèn nhờ hàng xóm sang giúp chặt hết tre già để ngâm xuống ao với ý nghĩ “ừ thì chặt, nếu dùng không hết thì bán”. Quả là lúc đầu đám măng non mọc nhanh thật. Chúng rất vui, nghêu ngao hát bởi “từ nay chẳng còn mang tiếng tre non ấp bóng tre già nữa”. Ai ngờ niềm vui chưa tày gang thì bão ập đến, đám măng tre bị bão quật đổ, đè bẹp dí dưới bờ ao. Ông chủ nhà tiếc ngẩn ngơ, lẩm bẩm “Giá mà ta để lại vài cây tre già cho lũ măng non này có chỗ dựa thì đâu đên nỗi”. Còn cậu Măng ngố thì ôm ghì lấy đàn em nói trong tiếng nấc nghẹn ngào, ân hận: “Các bác tre già ơi, chúng cháu ân hận lắm, ước gì…”. Cả đám măng khóc hu hu… Câu chuyện thật thương tâm, đau xót nhưng để lại một bài học thấm thía, nhớ đời.

Ngoài truyện đồng thoại, Lê Năng còn trực tiếp kể chuyện về con người, về trẻ thơ. Nhưng ông gắn họ vào huyền thoại tạo nên sức hấp dẫn, lạ kỳ. Đọc truyện “Quả mít trái mùa ”, ta như được xem một truyện cổ tích kể về mối quan hệ xã hội giữa kẻ giàu người nghèo, giữa cái thiện cái ác đầy tính nhân quả dưới chế độ cũ. Gia đình Đam Kha nghèo khó, cha con phải làm đầy tớ cho lão nhà giàu Lý Vò, cha ốm quá nên họ bị đuổi việc. Rồi bố mẹ ốm nặng qua đời, Đam Kha phải vào rừng đốn củi nuôi thân. Một hôm mưa gió, Đam Kha gặp một ông già nằm trước cửa hang, quần áo bê bết đất bùn, bị gãy hai chân. Anh thương tình, đưa nắm cơm duy nhất cùng ông ăn, rồi tìm lá thuốc về bó chân, chăm sóc ông suốt hai tuần trăng thì ông khỏi. Trước khi ra đi, ông già cho anh một hạt giống mít thần. Đam Kha trồng ở một góc vườn, chịu khó chăm nom cẩn thận. Mùa đông đến, đúng ngày rét nhất thì cây ra được một quả to như cái thúng, chín thơm lừng. Đam Kha bổ mít thì thấy mỗi múi mít là một thỏi vàng. Cuộc sống của anh và dân làng khá giả hẳn lên. Lão Lý Vò thấy vậy nổi lòng tham, tìm đến nhà hỏi han. Đam Kha thật lòng kể lại mọi chuyện. Lão Lý Vò bèn tính kế vào rừng, phủ mặt dùng gậy phang gãy hai chân ông già, rồi lại trả vờ là người cứu ông, chữa chạy cho ông. Khi ông già khỏi, lão đòi trả ơn. Ông già cũng cho lão một hạt giống mít thần. Lý Vò hí hửng trồng. Mùa đông đến, vào ngày rét nhất, cây mít cũng ra một quả to như cái nơm úp cá, chín thơm lừng. Vì tham lam, lão đuổi hết đầy tớ vào rừng kiếm củi, bắt vợ con về quê ngoại, rồi khoá cổng, tự mình mang hai bao tải to đến cây mít để đựng vàng. Khi bổ mít ra thì thấy mỗi múi mít ngọ nguậy chui ra một con rắn hổ mang, phì phì phun nọc độc vào mặt lão. Lý Vò sợ quá chạy ra cổng, không được, lão phải trèo qua tường lao đầu xuống đổng rác đầy mảnh chai mảnh lọ. Hàng xóm nghe thấy tiếng kêu cứu chạy đến thì lão đã tắt thở. Truyện được kể hệt như chuyện cổ tích với quan niệm truyền thống “Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo”. Qua truyện này, có thể thấy Lê Năng có khả năng sáng tạo ra truyện cổ tích.

Tuy nhiên xem truyện “Hang đá cháy” ta lại thấy Lê Năng đã dựa vào những lời truyền miệng trong dân chúng về sự tích hang Đá Cháy để xây dựng nên hình ảnh cậu bé Quyền 13-14 tuổi có sức mạnh thần kỳ, lập chiến công lớn cứu bản làng. Cậu bé Quyền bị câm từ nhỏ. Khi có con Ác điểu đến uy hiếp bản làng, cậu bé Quyền bỗng mở miệng oang oang mắng chim Ác, thậm chí còn vươn dậy giương nỏ bắn trúng hòn than ở miệng Ác điểu định thiêu cháy rừng già và bản làng, dìm dưới lòng suối tắt ngấm. Ác điểu giận dữ bay đến quặp Quyền đưa lên ngang núi ném xuống hang đá sâu rồi phun lửa đốt hang. Hàng vạn con dơi trong hang xúm lại xoè cánh đỡ Quyền và quạt tắt lửa. Cậu bé Quyền trèo lên miệng hang, bắn Ác điểu. Chim Ác điểu giãy giụa 3 ngày 3 đêm mới chết, hai chân đạp lung tung khiến các núi đá vỡ vụn lăn xuống suối nên lòng suối mới có nhiều đá như ngày nay. Cậu bé Quyền giết xong Ác điểu thì không thấy về nữa. Dân bản, cha mẹ lập miếu thờ cậu ở cửa hang và từ đó gọi là hang Đá Cháy (thuộc xã Hoà Cuông, huyện Trấn Yên bây giờ). Thực chất đây là một sự tích về bản làng, hang đá do dân chúng lưu truyền, được ông sưu tầm viết lại, có sự gia công thêm theo kiểu “chuyện cũ viết lại”, thấy rõ dấu tích miêu tả và văn phong của ông.

Có những truyện ông viết về trẻ em thời nay, nhưng gắn với những hành động thông minh ở rừng hoặc những việc làm tốt có tính giáo dục trẻ thơ. Đó là hình ảnh cậu bé Vàng A Khua dân tộc Mông trong truyện “Vàng A Khua”. Bố đi bộ đội đánh Mỹ ở xa, ở nhà cậu cùng mẹ lên nương bẻ ngô, bị đàn khỉ bẻ trộm gần hết ngô. Cậu bé đã dùng mưu trí khiến chúng bắt chước hành động của mình và vứt lại ngô rồi dùng súng kíp bắn dọa khỉ, làm chúng bỏ chạy thục mạng. Hai mẹ con thu về được gần bốn lù cở ngô đầy, được mẹ hết lời khen ngợi. Hoặc trong truyện “Ổ trứng gà”, cậu bé Tiến thương mẹ lấy được một ổ trứng gà ở bụi đùm đũm về luộc cho mẹ ăn, cậu không ngờ đấy là ổ trứng của bà hàng xóm. Khi mẹ tra hỏi, biết rõ ngọn ngành thì chuyện đã rồi. Thấy ổ trứng gà của bà hàng xóm vẫn đủ cả 13 quả, ai nấy rất đồi ngạc nhiên. Hoá ra bé Dung biết chuyện đã bí mật bổ lợn nhựa lấy tiền tiết kiệm của mình mua 13 quả trứng khác đặt vào ổ thay cho ổ trứng đã mất. Tuy vậy, mẹ Thắm vẫn răn dạy Tiến, khen Dung ngoan và đưa các con sang nhà bà Hoạt hàng xóm xin lỗi. Đây là những truyện mang tính răn dạy, giáo dục con cái hàng ngày của những bậc cha mẹ, giúp các em hiểu ra cái hay cái dở trong sinh hoạt, dù mục đích những việc làm của các em là tốt đẹp.

Đọc truyện của Lê Năng, ta thấy ông rất yêu trẻ thơ. Ông nhiệt thành ngợi ca những phấm chất chăm ngoan, chịu khó, nghe lời cha mẹ, giúp đỡ người già, người nghèo khổ, gan dạ dũng cảm trong cuộc chiến chống lại cái ác, đem lại bình yên cho bản làng. Ông cũng nhẹ nhàng chỉ ra những thói xấu mà trẻ em hay mắc phải bằng những câu chuyện dí dỏm, nhân ái để các em tự rút ra bài học, tự mình sửa chữa, hoàn thiện mình.

Tấm lòng của Lê Năng đối với trẻ thơ thật đáng quý.