Năm 1993, tôi có dịp vào Văn Chấn công tác với tư cách biên tập- phóng viên của Tạp chí “Văn nghệ Lai Châu”. Nghỉ ở Nhà khách Ủy ban huyện, tôi cứ ngạc nhiên mãi về một ông già nom dáng khắc khổ, gầy gầy, khuôn mặt và đặc biệt quanh đôi mắt có nhiều vết nhăn, nói chung bên ngoài không có gì đáng chú ý cả, thế mà hầu như ai cũng quen biết ông, từ vị lãnh đạo đầu tỉnh đến các vị chức sắc ở các xã thuộc huyện Văn Chấn. Ông quen biết nhiều nhà báo, văn nghệ sĩ kể từ Trung ương đến địa phương. Ông được bố trí một phòng làm việc riêng, ăn nghỉ, đi lại, gặp gỡ bất cứ ai cũng dễ dàng, có thể ở Nhà khách Ủy ban vài tháng tùy ý. Hỏi ra mới biết ông là cán bộ cũ của huyện đã về hưu, đang lấy tư liệu ngồi viết lịch sử Đảng.
Tác giả: Phạm Đức Hảo
Tôi tìm cách làm quen. Ông bảo: “Thảo nào! Tớ thấy cậu lạ quá. Cánh nhà báo, nhà văn nào về đây mà tớ chả quen”. Tôi nói rằng cách đây mấy năm tôi có dạy học ở Trường Sư phạm I Nghĩa Lộ, trường ông Đàm. Ông ngạc nhiên: “Thế à? Sao tớ không biết nhỉ? Chắc lúc đó cậu chỉ biết dạy học, chẳng giao du quan hệ với ai. Thôi thế này! Bây giờ cậu về đi thực tế, cậu định lấy tư liệu gì, định đi đến xã nào, tớ giúp cho?”. Tôi không ngờ ông dễ tính thế. Tôi hỏi chuyện giải phóng Nghĩa Lộ, chuyện các cán bộ hậu địch thời kháng chiến chống Pháp. Ông bảo: “Ai mà tớ chả biết. Cậu định viết về ai, về chuyện gì, tớ có sẵn trong đầu đây. Rồi cậu đi gặp họ, tự bổ sung thêm”. Ngồi nói chuyện với ông, tôi không ngờ ông là pho sử sống của huyện Văn Chấn. Thảo nào cánh nhà báo, nhà văn đến đây hay tò mò khai thác tư liệu của ông, trước khi xuống cơ sở.
Tên ông là Phạm Đức Hảo, sinh năm 1926 ở thôn An Đông, xã Đông Giang, huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình. Hồi Pháp thuộc, ông học hết lớp nhất, sau này học hết phổ thông trung học, biết tiếng Hán, Pháp, Anh. Cách mạng tháng 8/1945, tham gia thanh niên cứu quốc, rồi làm Phó Chủ tịch Ủy ban kháng chiến xã và đi làm giao thông liên lạc cho huyện Đông Hưng. Cuối năm 1949, đầu năm 1950 giặc về làng, ông chuyển sang dạy học tư ở quê, ở Hải Phòng, Kiến An và các xã, thôn khác trong vùng địch tạm chiếm. Sau ngày giải phóng, ông thi vào trường Đại học nhân dân không đỗ, về quê dạy bổ túc văn hóa, năm 1960 được làm giáo viên dân lập, mỗi tháng xã trả cho mấy thùng thóc sinh sống. Ngày 20/8/1963 ông xung phong tình nguyện theo đoàn giáo viên Tây tiến đi lên Nghĩa lộ, được cử làm Hiệu trưởng trường Phổ thông cấp I xã Nghĩa Sơn. Năm 1966 vào Đảng. Năm 1968 ông được cử đi học Trung cấp sư phạm hoàn chỉnh, năm 1972 làm Hiệu trưởng trường Phổ thông cấp I Nghĩa An được 6 tháng, rồi về Phòng Giáo dục huyện. Được vài tháng ông lại có quyết định về Ban Tuyên giáo Huyện ủy Văn Chấn thuộc Tỉnh ủy Nghĩa Lộ, học trung cấp chính trị ở Cầu Giấy, Hà Nội. Khi nhập ba tỉnh Lào Cai- Nghĩa Lộ- Lai Châu thành tỉnh Hoàng Liên Sơn, ông được điều sang làm Trưởng Đài truyền thanh Nghĩa Lộ, sau này là Đài Truyền thanh Văn Chấn, rồi Trưởng phòng Văn hóa Thông tin, cuối cùng lại về làm Phó Ban tuyên giáo huyện Văn Chấn. Tháng 7/1989 ông nghỉ hưu, cùng cả gia đình chuyển ra Lai Châu sinh sống, ở sau chợ Km 4- phường Đồng Tâm với vợ và 7 người con (các con nay trưởng thành, có công ăn việc làm đầy đủ và đã lập gia đình riêng). Nay gia đình ông cư trú tại tổ 19, phường Minh Tân, thành phố Lai Châu.
Từ ngày nghỉ hưu đến nay, ông thường xuyên qua lại Văn Chấn viết lịch sử Đảng bộ cho các xã và huyện. Có thể kể các cuốn đã in: Lịch sử Đảng bộ huyện Trạm Tấu, Lịch sử Đảng bộ huyện Văn Chấn, Lịch sử Đảng bộ xã Nậm Búng, Lịch sử Đảng bộ xã Nghĩa Sơn, Lịch sử Đảng bộ xã Cát Thịnh. Có thêm gần một chục cuốn lịch sử Đảng bộ khác đã viết nhưng chưa có điều kiện in do xã chưa có tiền, hoặc một số cán bộ lãnh đạo chưa thống nhất về sự kiện lịch sử.
Nói chung, ông là người cần mẫn sưu tầm, ghi chép về lịch sử, địa lý, phong tục tập quán, văn hóa dân gian vùng quê Nghĩa Lộ- Văn Chấn. Ông hay viết báo và sáng tác thơ văn. Thời kháng chiến chống Pháp ông viết một số bài báo lấy bút danh Hải Hà, đăng ở báo chí Liên khu 3. Năm 1980, do chuyến đi thăm quan Huế, ông cảm xúc viết được bài thơ “Gặp Huế” đăng ở Văn nghệ Bình- Trị- Thiên. Một vài bài thơ, truyện cổ dân gian in ở sách báo tỉnh Nghĩa Lộ cũ.
Năm 1993 lần đầu gặp ông, ông vui vẻ đọc tôi nghe một số bài thơ và truyện. Tôi cảm thấy truyện và thơ của ông còn đuối, khó lọt được vào tạp chí, bèn mách nhỏ với ông rằng:
– Tốt nhất là bác sưu tầm truyện cổ dân gian các dân tộc Văn Chấn đã. Đây là công việc trong tầm tay của bác. Đằng nào bác cũng đến các xã, sưu tầm tư liệu viết lịch sử, gặp gỡ nhiều cán bộ, nghệ nhân các dân tộc. Vốn quý của đồng bào bao giờ cũng được nâng niu, quý trọng cần lưu giữ. Bài viết xong cứ gửi về cho Hội, em khắc lo đường biên tập, công bố cho bác.
Ông lấy làm thích thú lắm, hứa sẽ làm như tôi gợi ý. Đúng như tôi dự đoán, ông đã cất công sưu tầm, ghi chép truyện dân gian, gửi về cho Hội đều đặn. Từ đó ông có truyện dân gian được đăng trên các số Tạp chí “Văn nghệ Lai Châu”, rồi đến thơ . Ông trở thành hội viên Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Lai Châu (1996), Hội viên Hội Văn hóa dân gian tỉnh Lai Châu (1998). Thế là cùng một lúc, mặc dù tuổi già sức yếu, ông vẫn cặm cụi viết lịch sử, viết báo, lại hăng hái làm thơ, sưu tầm truyện cổ, viết tiểu thuyết, dần dần ông đã in được 7 tập sách:
- Suối nước mắt(Tập truyện dân gian các dân tộc vùng Văn Chấn)- Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, 1996.
- Nụ đầu mùa(Tập thơ)- Nhà xuất bản văn hóa dân tộc, 1997.
- Năm phút trước khi chết(Tiểu thuyết)- Nhà xuất bảnVăn hóa dân tộc, 1997.
- Giấc mộng đế vương(Tiểu thuyết)- Nhà xuất bảnVăn hóa dân tộc, 1999, tái bản năm 2002.
- Hương cốm(Tập thơ)- Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, 2001.
- Làng chân dốc(Tiểu thuyết)- Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc, 2006. Giải C Giải thưởng Văn học Nghệ thuật tỉnh Lai Châu năm 2006.
7.Cô giáo tôi (Tiểu thuyết)- Nhà xuất bản Văn học, 2014. Giải Khuyến khích Giải thưởng Văn học Nghệ thuật tỉnh Lai Châu năm 2014.
Ông đang dự định công bố tiếp các tập sách mới như: 1 tập truyện dân gian các dân tộc Văn Chấn- Lai Châu, 1 tập thơ, 2 tập tiểu thuyết: “Cuộc tình bốn bên”, “Vầng sáng và bóng tối”.
Mọi hoạt động sưu tầm và sáng tác của Phạm Đức Hảo đều tập trung vào vùng quê Văn Chấn. Những truyện dân gian ông sưu tầm, ghi chép chủ yếu là những truyền thuyết, một số ít là truyện cổ các dân tộc Thái, Tày, Mông xung quanh lòng chảo Mường Lò và huyện Văn Chấn vốn kết cấu đơn giản nhưng đã giúp cho người đọc phần nào hiểu được nguồn gốc, sự tích các vùng quê cũng như cuộc sống đau thương của đồng bào các dân tộc Văn Chấn thủa xưa, mặc dù cách kể và tả đan xen là một hạn chế cần phải xem xét, bàn bạc. Thơ của Phạm Đức Hảo bộc lộ tình yêu cảnh vật, con người quê hương Văn Chấn khá rõ. Tiểu thuyết xem ra có thế mạnh hơn. Tước bỏ hạn chế trong cách diễn đạt cũ có phần sáo mòn, đôi chỗ cải lương, ta thấy tiểu thuyết của ông được dàn dựng có bài bản, cốt truyện lắt léo dẫn dắt người đọc đến cùng câu chuyện. Ông thường dựa vào những sự kiện, sự việc có thật ở vùng quê Văn Chấn để tưởng tượng, dàn dựng cốt truyện một cách hợp lý, pha chút ly kỳ. Các nhân vật được bộc lộ tính cách qua hai tuyến nhân vật đối lập địch- ta, người trung thực- kẻ cơ hội. Tiểu thuyết “Năm phút trước khi chết” mang hơi hướng của thể loại tiểu thuyết tình báo- lịch sử, dựng lại được hình ảnh của Đội du kích Trạm Tấu phối hợp với tổ chức địch hậu ở vùng Mường Lò- Văn Chấn chiến đấu trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vô cùng vẻ vang, anh dũng. Cuốn tiểu thuyết này còn để lại những trang tư liệu lịch sử đáng quý. Còn ở cuốn tiểu thuyết “Giấc mộng đế vương”, ta lại thấy Phạm Đức Hảo xây dựng câu chuyện trên trục mâu thuẫn giữa hai tuyến nhân vật người trung thực- kẻ cơ hội, dùng ngòi bút xông xáo trên lĩnh vực chống tiêu cực, lên án thói cơ hội, phê phán kẻ tham nhũng, có chức có quyền, tỏ rõ bản lĩnh của một người viết trung thực, dũng cảm. Tiểu thuyết “Làng chân dốc” đề cao vùng đất và con người miền núi trong đấu tranh và xây dựng quê hương đất nước. Tiểu thuyết “Cô giáo tôi” viết về đề tài nhà giáo, ngợi ca một cô giáo hết lòng vì sự nghiệp giáo dục.
Tuy tuổi cao nhưng Phạm Đức Hảo vẫn cần cù, say mê các hoạt động sưu tầm và sáng tác, nhất là việc âm thầm ngồi viết tiểu thuyết về các đề tài có vấn đề như trên, tôi thiển nghĩ: Âu đó cũng là một tấm lòng sâu nặng tình nghĩa với quê hương, với cuộc đời, thật đáng nâng niu và quý trọng. Sau những năm tháng đau ốm, ông từ trần vào hồi 3 giờ 45 phút ngày 13/9/2017 (tức ngày 23/7 năm Đinh Dậu), thọ 92 tuổi. An táng tại Nghĩa trang Đá Bia, thành phố Lai Châu.
Ông ra đi để lại biết bao tiếc thương cho gia đình, đồng nghiệp, bạn bè văn nghệ sĩ.