Lê Ngân- hồn thơ người lính người thầy

Ông có vóc người cao đậm, khuôn mặt hiền hậu, nhân từ, ẩn sâu trong những nếp nhăn của người cao tuổi chứa đựng những nỗi niềm thao thức, mộng mơ khát vọng. Từ lâu tôi chỉ biết ông là một người thầy giáo từng trải, mẫn cán đã nghỉ hưu, yên phận với hạnh phúc gia đình ở căn nhà có biển số 340 khuất sau cánh cửa sắt to rộng thuộc tổ 72 phố Thống Nhất, phường Yên Ninh, thành phố Lai Châu. Mãi đến khi ông tặng tôi tập thơ “Nghiêng nghiêng bóng núi ” (2006) và ngỏ ý muốn xin vào Hội văn học nghệ thuật tỉnh Lai Châu, tôi mới biết ông có một cuộc đời gian lao, vất vả, nhưng hào hùng trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, sau đó là những năm tháng dài cống hiến trong ngành giáo dục miền núi. Ở ông toát ra một vẻ cương nghị và âm ỉ một tình yêu sâu nặng với văn học mà mãi đến bây giờ mới phát lộ. Ông là người lính – thầy giáo Lê Ngân, quê gốc ở làng Hạ Thạch, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ nhưng các cụ chuyển lên Y Can thuộc huyện Trấn Yên, tỉnh Lai Châu đến nay đã là bẩy đời.

Lê Ngân sinh năm 1934 ở xã Y Can, lớn lên, học hành và ra đi cũng từ đó. Cái làng Việt cổ miền thượng du sông Hồng ấy đã để lại cho ông bao kỷ niệm, cũng là nơi ông trăn trở cất lên bao lời thơ trìu mến. Bố mẹ ông sinh được 6 người con trai nhưng ốm đau bệnh tật đã lần lượt cướp đi 5 người, chỉ còn sống sót mỗi mình ông. Ông được cha mẹ cho ăn học tử tế. Học tiểu học, học chữ nho, rồi tốt nghiệp trung học, năm 1953 tình nguyện nhập ngũ, bắt đầu bước vào một trường đời kháng chiến gian khổ và anh dũng trên khắp các nẻo đường Tây Bắc. Lúc đầu ông được biên chế vào Đại đội 87 Trấn Yên, cuối năm 1953 chuyển quân vào Nghĩa Lộ, thành lập Tiểu đoàn 955, tiểu đoàn đầu tiên của Trung đoàn độc lập 159 Tây Bắc và suốt 10 năm ông gắn bó với núi rừng Tây Bắc, nhiều năm liên miên đi tiễu phỉ, hết mặt trận Bắc Lai, Mường Khoa lại đến Sa Pa ba cùng với dân ở Ta Cô – Móng Sến, Mường Bo, rồi những đợt chuyển quân đến Bình Lư, Phong Thổ, Lai Châu, vượt đèo Cla-Vô sang Pá Ham, lên Tủa Chùa, về Tuần Giáo, Điện Biên, lên Tây Trang vào Sông Mã, trở về Thuận Châu, Sơn La, Nà Sản, Yên Châu. Năm 1957 về Mộc Châu trấn giữ biên giới với 4 đồn biên phòng: Pa Háng, Pa Khôm, Nà Đít, Xuân Nha, Tiểu Khu Bộ 53 đóng tại Chiềng Ve – Lóng Sập.

Năm 1963 theo Quyết định của Liên bộ Nội vụ và Quốc phòng, ông được đi dự thi, đỗ vào khoa Toán trường Đại học Sư phạm Hà Nội, kết thúc 10 năm lính chiến rừng sâu miền biên cương Tây Bắc.

Ra trường, ông được điều động cùng các giáo viên khác lên thành lập trường cấp III Lục Yên (nay là trường THPT Hoàng Văn Thụ). Mấy năm sau lại chuyển về dạy Toán tại trường Trung cấp sư phạm Lai Châu ở khu sơ tán Mường Lai, Lục Yên. Năm 1969 cùng ông Hán Trung Châu về Ty Giáo dục Lai Châu phụ trách công tác bồi dưỡng cấp II, III và Trung học hoàn chỉnh.

Ngày 15/8/1970 nhận Quyết định làm Hiệu trưởng, ông lên đường đi thành lập trường cấp III Văn Yên (nay là trường THPT Chu Văn An).

Năm 1980 về Sở Giáo dục Hoàng Liên Sơn làm công tác đào tạo và bồi dưỡng.

Năm 1982 thành lập trường Trung học vùng cao của tỉnh (nay là trường THPT Dân tộc nội trú tỉnh Lai Châu), ông về làm Bí thư Chi bộ, Hiệu phó phụ trách chuyên môn.

Năm 1992 nghỉ hưu, kết thúc 30 năm nghề dạy học. Cũng bắt đầu từ năm 1992, ông mới có thời gian để lục lại ký ức thao thức với những chặng đường đời của mình để ghi chép bằng thơ, bằng những trang hồi tưởng đầy xúc động về quê hương, gia đình, đồng đội, bạn bè, thầy giáo và nhà trường… Ông viết như sự dồn tích cả một cuộc đời cống hiến, viết với niềm say mê, chợt tỉnh ra mình vốn có năng khiếu từ thuở học trò. Lục lại ký ức, ông nhớ thời học sinh trung học đã từng viết truyện ngắn “Một đời “, năm 1957 lúc ở quân đội đã viết vở kịch thơ “Điền và lúa“. Năm 1958 viết truyện vừa “Làng núi ” hơn 400 trang gửi Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, nhưng không được ấn hành. Riêng về thơ, ông đã sáng tác rải rác từ năm 1953 đến nay, chỉ bước sang những năm đầu thế kỷ XXI thơ ông mới được công bố nhiều hơn. Ông lần lượt cho ra đời các tập thơ:

– Hương quê (2005)

– Nghiêng nghiêng bóng núi (NXB Hội Nhà văn, 2006)

– Thao thức một miền quê (NXB Văn học, 2010)

– Lau thưa xào xạc mãi (NXB Văn học, 2011)

Ông là hội viên Hội văn học nghệ thuật tỉnh Lai Châu (2008), hội viên Câu lạc bộ thơ Việt Nam, hội viên Chi hội thơ Đường UNESCO tỉnh Lai Châu. Đã có thơ đạt giải thi thơ Đường toàn quốc năm 2009, giải thi thơ của Câu lạc bộ thơ Việt Nam năm 2010. Tập thơ “Thao thức một miền quê ” đạt giải khuyến khích văn học nghệ thuật tỉnh Lai Châu năm 2010.

Chẳng biết tôi nói có đúng không: có lẽ ông là người lính cuối cùng thời kháng chiến chống thực dân Pháp bước chân vào làng thơ với tư cách một hội viên Hội văn học nghệ thuật tỉnh Lai Châu và cũng là một hồn thơ xứng đáng góp mặt trong làng thơ kháng chiến chống Pháp. Thơ ông viết trực tiếp trong những năm kháng chiến chống Pháp nóng hổi tình yêu nước, mang hồn thơ của người lính trận trên chiến trường Tây Bắc gian khổ và ác liệt. Mãi sau này khi về nghỉ hưu, thơ ông dù chỉ là những ký ức sâu nặng về quê hương, gia đình, vẫn dành biết bao kỷ niệm về chiến trận, về tình đồng đội, nghĩa đồng bào Tây Bắc. Chẳng thế mà thơ viết về quê hương, về người lính chống Pháp của ông mấy năm gần đây được Đài tiếng nói Việt Nam nhiều lần giới thiệu, đọc cho công chúng nghe. Ngoài ra, ông có mảng thơ viết về đề tài giáo dục, về tâm trạng và thú vui của người cao tuổi cùng các chuyến đi thăm quan, du lịch cuối đời đầy thi vị, ấm áp những kỷ niệm nhớ thương.

Cuộc đời Lê Ngân là cuộc đời người lính – người thầy sống hết mình cho các miền quê Tây Bắc. Thơ Lê Ngân là tấm gương phản chiếu cuộc đời người lính – người thầy đầy vinh hạnh, tự hào.